Nghị Luận Văn Học Lớp 10 Đại Cáo Bình Ngô Đại Cáo (13 Mẫu), Văn Mẫu Nghị Luận Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo

[ad_1]

Bạn đang xem: Nghị Luận Văn Học Lớp 10 Đại Cáo Bình Ngô Đại Cáo (13 Mẫu), Văn Mẫu Nghị Luận Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo Tại Lingocard.vn

Văn mẫu lớp 10: Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình Ngô gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

Đang xem: Nghị luận văn học lớp 10 đại cáo bình ngô

Để tiện trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về giảng dạy và học tập các môn học lớp 10, lingocard.vn mời các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và các bạn học sinh truy cập nhóm riêng dành cho lớp 10 sau: Nhóm Tài liệu học tập lớp 10. Rất mong nhận được sự ủng hộ của các thầy cô và các bạn.

Dàn Ý Nghị Luận “Bình Ngô Đại Cáo”

Mở bài

Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận: tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi.

Thân bài

Giới thiệu tác giả, tác phẩm

– Tác giả: Nguyễn Trãi là nhà quân sự tài ba, là nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ.

– Tác phẩm: “Bình Ngô Đại Cáo” tựa bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc được viết vào khoảng cuối năm 1428..

Nghị luận tác phẩm

b.1. Tiền đề lí luận

* Tư tưởng nhân nghĩa:

– Nhân nghĩa trong tư tưởng Nho giáo: mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí.

– Nhân nghĩa trong tư tưởng Nguyễn Trãi:

+ Kế thừa tư tưởng Nho giáo: làm cho dân hạnh phúc (“yên dân”).

+ Tư tưởng mới: vì dân mà trừ bạo tàn (“ trừ bạo”)

-> Tư tưởng nhân nghĩa không bị bó hẹp trong phạm vi Nho giáo mà được mở rộng ra. Phân biệt rõ ràng ta là chính nghĩa, giặc Minh là phi nghĩa.

* Chân lí về độc lập dân tộc

– Dẫn chứng thuyết phục: văn hiến lâu đời, lãnh thổ riêng, phong tục phong phú, lịch sử lâu đời.

-> Khẳng định tư cách độc lập là chân lí không thể chối cãi.

– Từ ngữ: “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia”

-> Khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của đất nước ta.

– Thái độ của Nguyễn Trãi:

+ So sánh ngang bằng triều đại Đại Việt và Trung Hoa.

+ Gọi vua Đại Việt là “Đế” (vua phương Bắc trước nay chỉ gọi ta là Vương)

-> Ý thức chủ quyền độc lập cao độ.

– Phép liệt kê: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô,…

-> Lời cảnh cáo đanh thép về kết cục của kẻ chống lại chân lí.

b.2. Soi chiếu lí luận vào thực tiễn

* Tội ác của giặc Minh:

– Xâm lược: bịp bợm với ý đồ cướp nước ta (“nhân”, “thừa cơ”)

– Bóc lột nhân dân:

+ Tàn sát người vô tội (“nướng dân đen”, “vùi con đỏ”)

+ Vơ vét tài nguyên nước ta.

+ Phá hoại môi trường, tự nhiên sinh thái của ta.

-> Hình ảnh kẻ thù đối lập với nhân dân ta.

-> Nỗi xót xa với nhân dân và căm phẫn với kẻ thù.

*Lòng căm thù giặc của nhân dân:

– Nghệ thuật phóng đại: “Trúc Năm Sơn…rửa sạch mùi”

-> Ví sự tội ác giặc với sự vô cùng của tự nhiên.

– Câu hỏi tu từ: “Lẽ nào…chịu được”

-> Thái độ căm phẫn của nhân dân.

b.3. Diễn biến cuộc khởi nghĩa

*Hình tượng người anh hùng Lê Lợi:

– Xuất thân: nông dân.

– Căn cứ khởi nghĩa: “núi Lam Sơn dấy nghĩa”

– Lòng căm thù giặc sâu sắc: “ căm giặc nước thề không cùng sống”

– Lí tưởng lớn, biết trọng người tài: “Tấm lòng cứu nước…dành phía tả”

-> Lê Lợi hiện lên vừa bình dị vừa có cốt cã cách của bậc anh hùng.

*Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

– Giai đoạn đầu:

+ Khó khăn về vật dụng quân trang cũng như lương thực thực phẩm.

+ Tính thần của quân và dân: gắng chí, quyết tâm.

– Giai đoạn phản công và giành thắng lợi: biện pháp liệt kê tái hiện không khí chiến đấu sôi sục và sự chiến thắng giòn giã của ta.

– Sự thất bại nhục nhã của giặc:

+ Cởi áo giáp xin hàng (Thượng Hoàng Thư Phúc)

+ Nghệ thuật phóng đại: “thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”

– Cách ứng xử nhân đạo của quân ta: “Thần vũ chẳng giết hại…nghỉ sức”

-> Niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi.

b.4. Niềm tin của nhân

– Tuyên bố đất nước hòa bình, mở ra kỉ nguyên mới.

– Giọng điệu hào sảng -> Niềm tin của Nguyễn Trãi.

– Hình ảnh về tương lai đất nước: “xã tắc từ đây…vững chắc”

-> Lòng lạc quan về sự nghiệp xây dựng đất nước.

Tổng kết

– Nội dung: Tác phẩm khẳng định chân lí độc lập của dân tộc và thay mặt vua Lê, tuyên cáo thành lập triều đại mới.

– Nghệ thuật: thể cáo được vận dụng tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính trị và chất văn chương, biện pháp liệt kê, phóng đại,…

Kết bài

Khẳng định giá trị của tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” và tài năng của Nguyễn Trãi.

Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình Ngô – Bài tham khảo 1

Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được đánh giá là áng “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào.

“Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải kí hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập tự chủ, hòa bình. Nguyễn Trãi (1380-1442) là một anh hùng dân tộc, là người toàn tài hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đồng thời cũng là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận kiệt xuất, là cây đại thụ đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam.

Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc, công báo trước toàn dân. Nhan đề tác phẩm có ‎ Ý nghĩa là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô-một tên gọi hàm ý khinh bỉ căm thù giặc Minh xâm lược. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.

Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầu nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân-Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” và “Như nước Đại Việt ta từ trước-Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đoạn thứ hai của bài cáo đã vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo giặc Minh ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. Đồng thời, đoạn văn cũng nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới ách thống trị của kẻ thù: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”; “Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế-Gây binh kết oán, trải hai mươi năm”. Đoạn văn ngùn ngụt Ý chí căm thù giặc và thống thiết nỗi thương dân lầm than. Đoạn văn thứ ba là đoạn dài nhất của bài cáo, có Ý nghĩa như bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn văn đã tổng kết lại quá trình khởi nghĩa. Ban đầu cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, lương thảo, quân sĩ, người tài đều thiếu, nghĩa quân ở vào thế yếu “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện quân không một đội”, “Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu”, “lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều”…Nhưng nghĩa quân có người lãnh tụ Lê Lợi sáng suốt, bền chí, yêu nước “Ngẫm thù lớn há đội trời chung-Căm giặc nước thề không cùng sống”, biết đoàn kết lòng dân “Sĩ tốt một lòng phụ tử-Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”, dùng chiến thuật phù hợp nên nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành “Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh” và ngày càng chiến thắng giòn giã, vang dội “Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông”, giặc Minh thì liên tiếp thất bại, thất bại sau lại càng thảm hại hơn thất bại trước, mỗi tên tướng giặc bại trận lại có vết nhục nhã riêng: kẻ treo cổ tự vẫn, kẻ quỳ gối dâng tờ tạ tội, kẻ bị bêu đầu…Đoạn văn thứ ba của bài cáo cũng ca ngợi lòng nhân đạo, chuộng hòa bình của nhân dân, dân tộc ta, tha sống cho quân giặc đã đầu hàng, lại cấp cho chúng phương tiện, lương thảo về nước. Đoạn cuối của bài cáo đã tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước, thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Bài cáo có sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi, mãnh liệt. Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc, khi thì căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.

“Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam ngày nay đều hào sảng trước những câu văn hùng hồn

Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình Ngô – Bài tham khảo 2

Mùa xuân năm 1428, sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay Bình Định Vương Lê Lợi thảo bản “Cáo Bình Ngô” để tuyên bố sự thắng lợi của dân tộc. Bài cáo đã khẳng định chủ quyền, độc lập, tự tôn dân tộc rất rõ ràng, khí thế cà được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc sau “Sông núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt.

Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;

Điều đầu tiên mà Nguyễn Trãi nhắc tới ở bài cáo là tư tưởng “nhân nghĩa”. Nhân nghĩa là lễ nghĩa, nghĩa tình của một con người, nâng lên thành tư tưởng chính là cách đối nhân xử thế của một con người thực thụ, mà ở đây là cốt ở “yên dân”. Đây được coi là một tư tưởng mới, thấm nhuần nội dung tiến bộ của đạo Nho gia, đó là lấy dân làm gốc. Hơn ai hết, ông hiểu rằng, không gì quan trọng hơn là lo cho nhân dân một cuộc sống ấm no, yên ổn. Bởi nhân dân chính là cái gốc của một dân tộc, một dân tộc không có dân thì không gọi là dân tộc, nhân dân sẽ là yếu tố quyết định số phận cả một dân tộc: “Đẩy thuyền là dân, Lật thuyền là dân”. Xuất phát từ tư tưởng ấy, mọi hành động đều là vì sự no ấm của dân, mà muốn dân yên ổn, phải trừ được bạo tàn chính là bè lũ bán nước và cướp nước. Phải dẹp gọn giặc xâm lăm, nhân dân mới được hưởng thái bình, sung túc. Tư tưởng ấy không chỉ còn là tư tưởng đạo đức mà đã nâng lên thành chân lí bất di bất dịch. Từ đó, ông đưa ra nhân nghĩa còn gắn với bảo vệ độc lập, khẳng định chủ quyền dân tộc:

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Nước non bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên đế một phương;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có.

Nếu Lý Thường Kiệt khẳng định sự độc tôn dân tộc bằng sách trời thì Nguyễn Trãi đã khẳng định nước Đại Việt ta là một nước hoàn toàn độc lập, tự chủ với một nền văn hiến và có lãnh thổ riêng. Chúng ta và phương Bắc khác nhau về những phong tục, tập quán, văn hóa truyền thống và có cả lịch sử, nhân tài. Núi sông bờ cõi cũng đánh dấu rõ ràng ranh giới lãnh thổ, không cớ gì chúng nhận nước ta là một phần của chúng. Phương Bắc có chúa, Đại Việt cũng có vua, từng thời điểm lịch sử qua cũng có những thời đại riêng sánh ngang với những thời đại lớn ở phương Bắc. Một đất nước có đủ mọi phương diện về văn hiến và lãnh thổ, chính là một đất nước độc lập không thể chối cãi, chính vì vậy, việc xâm lược của các nước phương Bắc đối với Đại Việt là sai trái, trái với nhân nghĩa.

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét.

Xem thêm: Hướng Dẫn Cách Tính Cổ Tức Trên Mỗi Cổ Phiếu Dps, Hướng Dẫn Tính Các Tỷ Lệ Cổ Tức (2021)

Chứng cứ còn ghi.

Ông còn tự hào chỉ ra rõ ràng những tên tuổi, địa danh, những vết tích ô nhục của quân địch phải chịu khi xâm lược vào bờ cõi nước ta, lịch sử về việc chúng thảm bại dưới gươm chính nghĩa của nhân dân Đại Việt vẫn còn đó, chứng ứ còn rõ ràng hơn ban ngày. Điều đó đã khẳng định chúng là quân hiểm ác nhất định sẽ thất bại dưới chúng ta. Vậy mà, chúng vẫn không chịu đầu hàng:

Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn

Rồi, nhân đó, ông chỉ ra những nỗi khổ mà nhân dân phải chịu đựng khi chính sự rối ren:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,

Ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,

Khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng,

Máu mỡ bấy no nê chưa chán,

Nay xây nhà, mai đắp đất,

Chân tay nào phục dịch cho vừa?

Ông gọi nhân dân là “dân đen, con đỏ” thể hiện sự thương yêu, xót xa khôn cùng. Ông vạch ra tội ác của bọn xâm lăng, đi đến đâu là vùi chôn nhân dân trong lửa, trong máu, những việc tàn nhẫn như chôn sống, dối lừa, bắt thuế, bắt người xuống biển đi mò sản vật, lên rừng săn quý hiếm,… Những việc làm của chúng làm cho nhân dân không những không thể sống yên ổn mà còn chịu biết bao khổ sợ đau đớn, người mất mạn vô số, kẻ lầm than ở khắp nơi. Trong mắt nhân dân chúng chỉ như những con quỷ khát máu khát thịt lúc nào cũng nhe nanh đòi máu, đì mỡ, là những kẻ tội đồ mà:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!

Những cụm từ được đặt lên đầu câu nhấn mạnh vào sự căm hờn vô tả của Nguyễn Trãi đối với tội ác của bọn xâm lăng, những tội ác ấy không sao kể xuể, không gì rửa sạch được, không có ngòi bút nào kể hết, không nước ở đâu rửa sạch được máu mà chúng ta ấy lên đất Đại Việt. Sự tàn nhân và tội ác mà chúng để lại cho dân tộc ta đã chất nhiều vô kể, khiến cho:

Lòng người đều căm giận,

Trời đất chẳng dung tha;

Những lời sau là Nguyễn Trãi nói thay lời Lê Lợi:

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh.

Ở đoạn này, Nguyễn Trãi tập trung chủ yếu vào việc miêu tả hình ảnh của Lê Lợi. Bắt đầu từ lòng căm thù đối với bè lũ bán nước và cướp nước khiến cho nhân dân ta lầm than, đến việc quyết định dấy binh khởi nghĩa, chịu bao nhiêu khó khăn nhưng vẫn kiên trì theo đuổi, bao nhiêu đêm trằn trọc, mất ngủ cũng đều là vì việc quân việc nước. Đúng là một chủ tướng vừa có tâm vừa có tài, hết lòng vì đại cuộc, với nhân dân lúc này chính là cần một người thủ lĩnh như vậy để dẫn dắt họ đứng lên đấu tranh đánh đuổi những tên xấu xa ra khỏi đất nước, giữ yên bờ cõi, giữ yên cuộc sống yên ổn, ấm no.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu,

Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,

Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,

Tấm lòng cứu nước,

Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,

Cỗ xe cầu hiền,

Thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:

Trông người, người càng vắng bóng,

Mịt mù như nhìn chốn bể khơi.

Tự ta, ta phải dốc lòng,

Vội vã hơn cứu người chết đói.

Phần vì giận quân thù ngang dọc,

Phần vì lo vận nước khó khăn,

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Lúc Khôi Huyện quân không một đội.

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan.

Nhân dân bốn cõi một nhà,

Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới

Tướng sĩ một lòng phụ tử,

Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Tình thần thì kì vĩ nhưng khó khăn cũng không kém đồ sộ. Buổi đầu của cuộc kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn, vất vả, không thể chiêu dụ người tài, đất nước lại đang nhiều khó khăn, quân địch thì đang lúc mạnh nhất, khó đủ mọi bề. Nhưng nhờ vào sự đoàn kết của binh lính, coi nhau như ruột thịt, dốc lòng vì cuộc kháng chiến nên bao trận chiến ác liệt nổ ra, dân ta lấy ít địch nhiều nhưng lòng vẫn hồ hởi tự tin vào chiến thắng cuối cùng.

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo

Dân ta chính là đại nghĩa, bọn xâm lược chính là hung tàn, câu thơ đối cực hay làm nổi bật sự khác biệt giữa ta và địch, đó chính là lí do, ta tất thắng. Vì thế mà những trận đánh trở nên ngày càng quyết liệt, hăng say:

Sĩ khí đã hăng quân thanh càng mạnh.

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.

Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm

Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu

Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.

Vương Thông gỡ thế nguy,

Mà đám lửa cháy lại càng cháy

Mã Anh cứu trận đánh

Mà quân ta hăng lại càng hăng.

Bó tay để đợi bại vong,

Giặc đã trí cùng lực kiệt,

Chẳng đánh mà người chịu khuất,

Ta đây mưu phạt tâm công.

Tưởng chúng biết lẽ ăn năn

Nên đã thay lòng đổi dạ

Ngờ đâu vẫn đương mưu tính

Lại còn chuốc tội gây oan.

Giữ ý kiến một người,

Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,

Tham công danh một lúc,

Để cười cho tất cả thế gian.

Những trận đánh quyết liệt được chỉ ra hết sức tự hào, thể hiện chí khí ngút trời và tinh thần không chịu lui của quân và dân. Nhưng quân ta càng mưu trí, hãnh diện bao nhiêu, lũ cướp nước càng đê hèn bấy nhiêu;

Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng

Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy

Đinh mùi tháng chín,

Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại

Năm ấy tháng mười,

Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

Ta trước đã điều binh thủ hiểm,

Chặt mũi tiên phong

Sau lại sai tướng chẹn đường

Tuyệt nguồn lương thực

Rồi những chiến thắng đến bắt đầu dồn dập như vũ báo, báo hiệu sự toàn thắng của quân và dân ta:

Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong

Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

Tiếp đó, Nguyễn trãi chuyển bài cáo sang không khí trận mạc, qua đó ta thấy được hình ảnh oai dũng của quân và dân ta trên chiến trường, đánh cho quân giặc không còn manh giáp:

Sĩ tốt kén người hùng hổ

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông.

Cơn gió to trút sạch lá khô,

Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

Vì thế mà chiến công hiển hách vang dội chất đầy như núi, thảm bại của giặc không kể sao cho xiết:

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước

Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.

Bị ta chặn ở Lê Hoa,

Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật

Toàn những kẻ tham sống sợ chết, đê hèn bị ổi, xin hàng trong sự thất bại ê chề, vì nhân nghĩa, quân và dân ta dùng lòng nhân đạo để bao dung kẻ vô nhân. Kể từ ấy, chúng ta yên tâm vì:

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu

Muôn thuở nền thái bình vững chắc

Đất nước từ nay bước sang một trang mới, thời kì của độc lập, tự chủ, của ấm no, hạnh phúc, không còn đâu những cảnh đau thương tan tác, mặt trời như đã tỏ rạng khắp giang sơn. Cuối cùng, Nguyễn Trãi nhắn đến cha ông ta như một sự biết ơn:

Âu cũng nhờ trời đất tổ tông

Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,

Nên công oanh liệt ngàn năm

Bốn phương biển cả thanh bình,

Ban chiếu duy tân khắp chốn.

Bài cáo có giá trị lớn lao, không chỉ thể hiện độc lập, chủ quyền dân tộc trong niềm tự tôn mà còn là tiếng nói yêu nước, yêu dân, tinh thần nhân nghĩa, ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm của con dân Đại Việt.

Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình Ngô – Bài tham khảo 3

Nếu “Nam quốc sơn hà” được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc thì “Bình Ngô Đại Cáo” xứng đáng được tôn xưng như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai. Bằng ngòi bút và tư tưởng vượt trước thời đại của mình, Nguyễn Trãi đã tạo nên một thiên anh hùng ca, vừa có giá trị văn học vừa có giá trị lịch sử sâu sắc.

Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự tài ba, đóng góp quan trọng cho việc thành lập nhà Lê mà ông còn là một nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Ông để lại tiếng thơm cho đời bởi những tư tưởng nhân nghĩa ông gửi gắm trong từng tác phẩm của mình. Tiêu biểu trong số ấy là “Bình Ngô Đại Cáo” ra đời vào mùa xuân năm 1482, tựa một bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc. Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay vua Lê Lợi thảo bản cáo này để tuyên bố sự thắng lợi của quân và dân ta. Nhan đề tác phẩm có nghĩa là: bài cáo quan trọng tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô (tên gọi hàm ý khinh bỉ thay cho giặc Minh).

Xem thêm: bài tập về tập hợp toán cao cấp

Trước hết, Nguyễn Trãi đặt ra tiền đề lí luận cho những lí lẽ của mình. Ông đi vào khẳng định cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Nếu trong Nho giáo, nhân nghĩa là mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí thì đến Nguyễn Trãi, ông đã tiếp thu và mở rộng phạm vi nhân nghĩa ra:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Nhân nghĩa không chỉ là việc làm cho dân hạnh phúc (“yên dân”) mà còn cả việc trừ bạo tàn, diệt những kẻ làm dân khốn đốn (“trừ bạo”). Đây hoàn toàn là một lời khẳng định đanh thép về bản chất của ta và địch: ta chính nghĩa, địch phi nghĩa. Qua đó còn thể hiện sự tuyên bố về quốc gia và chủ quyền. Nguyễn Trãi đã tài tình nêu ra một loạt các dẫn chứng thuyết phục cho chân lí độc lập không thể chối cãi của dân tộc: có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục phong phú và lịch sử lâu đời,… Song hành với đó, các từ “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia” góp phần củng cố thêm sự tồn tại hiển nhiên của đất nước ta. Bản thân Nguyễn Trãi cũng có ý thức về chủ quyền độc lập cao độ khi dùng phép so sánh ngang bằng khi so sánh triều đại Đại Việt ta và triều đại Trung Hoa. Trong khi vua phương Bắc trước nay chỉ gọi vua ta là “Vương” (chức cai quản một vùng đất nhỏ) thì Nguyễn Trãi khẳng khái gọi “Đế” (danh gọi vua của một nước). Chỉ một chữ đó thôi nhưng cũng thể hiện lòng kiêu hãnh của một nước nhỏ về diện tích lãnh thổ nhưng không hề nhỏ về lòng tự tôn dân tộc. Các danh tướng của giặc lần lượt được liệt kê chỉ thêm tô đậm lời cảnh cáo về kết cục của kẻ chống lại chân lí: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô bị bắt sống,… Tư tưởng nhân nghĩa làm tiền đề cho lời tuyên bố về chủ quyền của một quốc gia và chắc chắn rằng dòng giống con Rồng cháu Tiên sẵn sàng đánh đổi tất cả để giữ vững quyền tự do độc lập đó.

Soi chiếu lí luận vào thực tiễn, hình ảnh nhân dân ta quằn quại đau đớn dưới gót giày thống trị của giặc Minh không khỏi khiến người đời xót xa:

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Luận văn

[ad_2]

Related Posts

Game nướng gà: Trò chơi nướng gà

[ad_1]  ContentsDàn Ý Nghị Luận “Bình Ngô Đại Cáo”Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình Ngô – Bài tham khảo 1Nghị luận tác phẩm Đại cáo…

Game biệt đội đánh thuê: Metal Guns Fury

[ad_1] ContentsDàn Ý Nghị Luận “Bình Ngô Đại Cáo”Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình Ngô – Bài tham khảo 1Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình…

Trò chơi thợ săn diệt quái vật

[ad_1]  ContentsDàn Ý Nghị Luận “Bình Ngô Đại Cáo”Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình Ngô – Bài tham khảo 1Nghị luận tác phẩm Đại cáo…

Trò chơi anh hùng nhỏ tuổi

[ad_1] ContentsDàn Ý Nghị Luận “Bình Ngô Đại Cáo”Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình Ngô – Bài tham khảo 1Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình…

Trò chơi Kung Fu Panda 3 đại chiến

[ad_1]  ContentsDàn Ý Nghị Luận “Bình Ngô Đại Cáo”Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình Ngô – Bài tham khảo 1Nghị luận tác phẩm Đại cáo…

Trò chơ Ben 10 chiến đấu

[ad_1] ContentsDàn Ý Nghị Luận “Bình Ngô Đại Cáo”Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình Ngô – Bài tham khảo 1Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình…

Leave a Reply